Hát chèo là gì? Nguồn gốc, đặc điểm, phân loại

Trải quả hàng thế kỉ, hát chèo đã trở thành môn nghệ thuật dân gian thấm nhuần vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam. Không chỉ là hình thức giải trí mà còn là ” món ăn ” tinh thần mang đậm bản sắc dân tộc. Để đi sâu hơn về loại hình sân khấu này, Hãy cùng Khang Phú Đạt Audio tìm hiểu hát chèo là gì? Nguồn gốc, đặc điểm và phân loại chúng như thế nào?

I. Hát chèo là gì?

Từ thế kỉ 10 cho đến nay, hát chèo trở thành một trong những loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam, phát triển mạnh ở phía bắc, đặc biệt là đồng bằng sông Hồng. Không chỉ vậy, tầm ảnh hưởng còn lan tỏa đến các khu vực Bắc Trung Bộ và Trung Du Miền Núi Bắc Bộ.

Nhờ vào những ngôn từ ví von trong câu hát, nội dung gần gũi, thường nhật, diễn tả chân thực, sâu sắc muôn hình vạn trạng những thứ xung quanh đời sống con người. Nhờ vậy mà hát chèo luôn được coi là món ăn tinh thần, nghệ thuật sân khấu của hội hè đặc sắc.

Không chỉ phổ biến từ thời xa xưa, mà ngày nay chèo vẫn có được chỗ đứng vững chắc trong lòng của khác giả nơi kinh thành Thăng Long nói riêng và đất nước ta nói chung. Hiện nay, trong hệ thống âm thanh sân khấu thì hát chèo cùng với hát chầu văn là những môn nghệ thuật được sử dụng nhiều nhất.

hat-cheo-la-gi

Đây là loại hình nghệ thuật dân gian cùng với sự ra đời phát triển lâu dài qua hàng chục thế kỉ. Nên đa đi sâu vào đời sống xã hội của người dân Việt nam, phản ánh đầy đủ các góc nhìn của dân tộc lạc quan, yêu nước, nhân ái, giản dị, kiên cường, bất khuất,… Cũng chính vì những nội dung đó mà Chèo có đầy đủ các thể loại văn học như anh hùng sử thi, lãng mạn, thơ ca,… hơn hẳn các loại hình truyền thống khác hiện nay.

II. Nguồn gốc hình thành chèo

Nghệ thuật sân khấu chèo có nguồn gốc và hình thành dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng ( thế kỉ 10). Do bà Phạm Thị Trân – một vũ ca tài năng trong kinh thành Huế sáng tạo ra.  Sau đó, Chèo phát triển rộng rãi đến các vùng châu thổ Bắc Bộ, từ phía bắc trở ra. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các mẫu sách, truyền miệng… thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn.

Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một con hát quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt Nam vào thế kỷ 14, tên gọi Lý Nguyên Cát. Binh sĩ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát. Tone nhạc của những bài hát Chèo thường rất cao, nên không phải nghệ sĩ nào cũng có thể hát được.

Chèo gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt. Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.

nguon-goc-hinh-thanh-cheo

III. Đặc điểm của nghệ thuật hát Chèo

Theo các nhà nghiên cứu thì hát Chèo mang rất nhiều các đặc trưng khác nhau. Tuy nhiên, nổi bật phải kể đến:

  • Thể loại kịch hát dân gian dân tộc mang tính nguyên hợp
  • Chèo là sân khấu của hiện thực đời sống tam nông: nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
  • Sân khấu chèo hướng tới trình thức hóa
  • mô hình hóa (hình tượng của nhân vật).
  • Nghệ thuật sân khấu đồng cảm: đó là sự kết hợp tinh tế, nhuần nhuyễn, điêu luyện và hài hòa giữa gián cách và hòa cảm, giữa khách quan và chủ quan, giữa thực và hư trong quá trình thể hiện đời sống nhân vật trên sân khấu.
  • Chèo là hình thức nghệ thuật sân khấu luôn kết hợp hài hòa giữa (yếu tố) bi và hài.
  • Khán giả đồng sáng tạo với nghệ sĩ trên sân khấu, nhờ vào mối quan hệ giao lưu khơi gợi, kích động sáng tạo của nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo và trình diễn.

IV. Phân loại hát chèo

1/Chèo truyền thống

Chèo truyền thống: hay còn gọi là chèo sơ khai là hình thức câu hát được kết thừa và phát triển trên nguyên tắc bảo tồn những nguyên tắc cơ bản trong phương pháp nghệ thuật của chèo cổ. Có thể coi là một loại nhạc Acoustic được, vì cơ bản nó sử dụng toàn những nhạc cũ không dùng điện. Các vở diễn chèo truyền thống được tiếp nhận qua quá trình truyền nghề của các nghệ nhân, được chỉnh lý, nâng cao qua diễn xuất của các nghệ sĩ đương đại

2/Chèo hiện đại

Chèo hiện đại: “là các vở chèo do các tác giả, đạo diễn, nghệ sĩ thời kỳ hiện đại đồng sáng tạo, đã ra đời và tồn tại trong thời kỳ hiện đại phục vụ cho người xem đương thời. Như vậy, các vở chèo hiện đại bao gồm tất cả các tác phẩm có đề tài khai thác từ cổ tích, dân gian, dã sử, lịch sử và đề tài hiện đại”.

Trích đoạn một đoạn bài hát chèo:

Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem
Chẳng thèm ăn chả ăn nem
Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo”.

3/Chèo sân đình

Chèo sân đình đúng như cái tên của nó, thường được biểu diễn ở sân đình, sân chùa, hay sân của các nhà quyền quý từ thời xa xưa. Sân khấu của loại hình diễn xướng này tương đối đơn giản, mộc mạc, với chiếc chiếu trải ngoài sân, đằng sau treo chiếc màn nhỏ cùng dàn nhạc công và diễn viên ngồi hai bên mép chiếu để tạo dàn đế. Vì là theo lối dân giã nên Chèo sân đình được diễn theo lối ước lên, thể hiện động tác cách điệu cùng ngôn ngữ của diễn viên

4/Chèo cải lương

Chèo cải Lương được thực hiện từ những năm 1920 đến trước cách mạng tháng tám 1945 do Nguyễn Đình Khởi mở đầu

Nhằm khắc phục các điểm yếu của lối Chèo cổ, chèo Cải Lương có phần cải tiến hơn với các màn, lớp, bỏ, mú cùng các động tác cách điệu trong diễn xuất.

5/Chèo Chái Hê

Chèo Chái Hê thường được biểu diễn vào đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, hoặc rằm tháng 7. Loại hình nghệ thuật này có xuất xứ từ việc kết nghĩa giữa hai làng vân tương (ở Bắc Ninh) và Tam Sơn (ở Đông Anh, Hà Nội)

Chèo Chái Hê thường có 4 phần, cụ thể như sau:

  • Giáo roi
  • Nhị thập tứ hiếu
  • Múa hát chèo thuyền cạn
  • Múa hát kể thập ân

6/Các yếu tố tạo nên một tác phẩm chèo hoàn hảo

phan-loai-hat-cheo

V. Một số nghệ nhân Chèo nổi tiếng

Nói đến Chèo không thể không nhắc đến các nghệ nhân nổi tiếng – người tạo nên các tác phẩm ấn tượng, thỏa mãn người nghe. Những cái tên gắn liền với hát Chèo bao gồm:

  • NSUT Thu Hiền (Nhà hát Chèo Hà Nội)
  • NSUT Đình Cương (Nhà hát Chèo Thái Bình)
  • NSUT Thanh Loan (Nhà hát Chèo Việt Nam)
  • NSND Thúy Ngần, Giám đốc Nhà hát thể nghiệm
  • NSND Hồng Ngát, Phó Giám đốc Nhà hát Đài tiếng nói Việt Nam
  • NSND Thanh Ngoan, Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam.
  • NSƯT Nguyễn Quang Thập, Giám đốc Nhà hát Chèo Ninh Bình
  • NSND Mai Thủy, Phó Giám đốc Nhà hát Chèo Ninh Bình
  • NSUT Mạnh Thắng, Nhà hát Chèo Hải Dương
  • NSND Tự Long, Phó giám đốc Nhà hát Chèo Quân đội
  • NSND Huyền Phin, Nhà hát Chèo Thái Bình

VI. Các tác phẩm chèo ấn tượng của nền nghệ thuật Việt Nam

Các tác phẩm Chèo tiêu biểu làm nên tiếng tăm của dòng nghệ thuật này phải kể đến như: Hoàng Trìu kén vợ, Kim Nham, Lưu Bình Dương Lễ, Nghêu sò ốc hến, Quan Âm Thị Kính, Từ Thức gặp tiên, Trần Tử Lệ, Trương Viên, Tôn Mạnh Tôn Trọng, Bài ca giữ nước, Chu Mãi Thần, Đồng tiền Vạn Lịch, Thị Mầu lên chùa & Xã trưởng – Mẹ Đốp (vở Quan Âm Thị Kính), Súy Vân giả dại (vở Kim Nham), Tuần Ty Đào Huế (Chu Mãi Thần),…

Lời kết

Trên đây nội dung được Khang Phú Đạt Audio tìm hiểu và chia sẻ lại. Hi vọng sẽ cung cấp thêm thông tin cho bạn và góc nhìn mới mẻ về loại hình sân khấu này.